Bệnh heo

VITAMIN VÀ NĂNG SUẤT SINH SẢN CỦA HEO

Một trong những yếu tố quan trọng trong việc nâng cao năng suất sinh sản, giảm chi phí sản xuất là nâng cao chỉ số PSY (số con cai sữa/nái/năm). Ngoài việc cải thiện di truyền, kỹ thuật chăn nuôi thì việc bổ sung vitamin cũng giúp nâng cao năng suất sinh sản. Vitamin C giúp nâng cao chất lượng tinh heo đực, giảm tình trạng không mang thai vào mùa nóng.Nếu bổ sung vitamin D cho heo hậu bị thì sẽ giúp xương heo cứng, tránh tình trạng yếu chân, loãng xương khi nuôi nhốt trong chuồng ép, giảm tình trạng đào thải sớm.Riboflavin giúp giảm tình trạng không lên giống trên heo hậu bị. Vitamin E giúp tăng số heo con đẻ ra. A-xít folic và biotin giúp tăng tỷ lệ sống sót heo con trong thời kì mang thai của nái.Nếu nái nuôi con được bổ sung vitamin E thì chúng sẽ truyền vitamin E cho heo con qua sữa mẹ. Heo con được bổ sung vitamin E sẽ linh hoạt, hệ miễn dịch cũng tốt hơn.Biotin giúp rút ngắn thời gian lên giống lại sau cai sữa, ngoài ra biotin còn giúp giảm các vấn đề về móng và chân heo.Để cải thiện năng suất sinh sản cho heo, cần áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ. Các biện pháp này bao gồm cải thiện chất lượng di truyền, nâng cao kỹ thuật nuôi dưỡng quản lý, bổ sung dinh dưỡng.Để chăn nuôi tốt cần hiểu rõ chu kỳ sinh sản của nái. Ngoài ra, cần nắm rõ đặc tính của heo đực, hậu bị, heo con, cũng như cần chú ý tới các vấn đề như độ dày mỡ lưng, tốc độ tăng trọng, số heo con đẻ ra.Về mặt dinh dưỡng học, vitamin có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất sinh sản. Vitamin giúp cải thiện hiệu quả năng suất, tuổi thọ sinh sản, tăng sức khỏe heo con.Heo đực và chất lượng tinhViệc nuôi heo đực trong trại nái không chỉ phục vụ việc lấy tinh mà chúng còn giúp nái tăng năng suất thông qua kích thích các giác quan như khứu giác, thị giác, thính giác, xúc giác của nái. Việc nuôi nhốt chung nái và heo đực trong trại giúp rút ngắn thời gian lên giống lại sau cai sữa, dễ dự đoán thời gian nái rụng trứng.Khi đực già đi hoặc bị stress nhiệt thì chất lượng tinh của chúng sẽ giảm xuống. Nếu đực bị stress nhiệt thì nên bổ sung vitamin C để tăng số lượng và chất lượng tinh. Ngoài ra, nên bổ sung vitamin E và selenium vào khẩu phần ăn heo đực sẽ giúp cải thiện chất lượng tinh.Lựa chọn heo hậu bịViệc lựa chọn hậu bị và thời điểm phối (với ngày tuổi và trọng lượng phù hợp) không chỉ ảnh hưởng đến năng suất lứa đầu mà còn ảnh hưởng tới tuổi thọ sinh sản và năng suất các lứa sau.Để kéo dài tuổi thọ sinh sản cho hậu bị thì bộ khung xương phải phát triển tốt. Bộ khung xương khỏe mạnh thì hậu bị mới khai thác được lâu dài. Để tránh nái bị loãng xương thì cần cho chúng vận động. Với điều kiện nuôi nhốt trong chuồng ép thiếu vận động, vấn đề loãng xương của nái càng thêm trầm trọng, dễ dẫn tới việc đào thải sớm.Bổ sung 25-hydroxy-vitamin D3 cho nái sẽ giúp chống loãng xương, tăng cường sự cứng cáp của khung xương nái.PhốiSự rụng trứng và thụ tinh: Tùy theo độ tuổi mà nái có thể có từ 15~25 trứng. Số trứng rụng của nái tơ thường ít hơn nái rạ. Heo hậu bị được bổ sung riboflavin trong khẩu phần sẽ giúp giảm tình trạng không lên giống.Trong trường hợp nái bị stress cấp tính hay mãn tính dẫn đến tình trạng không mang thai vào mùa nóng thì ta nên bổ sung vitamin C.Bổ sung vitamin E vào khẩu phần ăn của nái sẽ giúp tăng số heo con sinh ra.Mang thai và sự phát triển của thai nhi: Khoảng 80~90% sự cố về thai nhi xảy ra trong vòng 25 ngày sau khi phối. 10~20% sự cố còn lại xảy ra vào kì cuối mang thai. Có thể, khi thai nhi phát triển quá nhanh chúng cần không gian lớn, nhưng với những nái tơ thì không gian dạng này thường nhỏ, nên dễ dẫn tới sẩy thai.Vitamin cần thiết cho sự phát triển thai nhi là biotin và a-xít folic. Theo một số nghiên cứu cho thấy, nếu bổ sung biotin vào khẩu phần hậu bị sẽ giúp gia tăng chiều dài sừng tử cung thêm 20%. Nếu không bổ sung các vitamin cần thiết vào khẩu phần ăn của nái sẽ khiến số heo con đẻ ra bị ít đi.Nếu heo nái bị thiếu vitamin A thì sự phát triển phổi và gan của heo con không tương xứng với các bộ phận cơ thể khác.Đẻ và cai sữaSữa mẹ và chất dinh dưỡng truyền cho con: Với sự phát triển về di truyền học thì số lượng heo con đẻ ra và tốc độ tăng trọng đã được cải thiện nhiều.Khi số heo con đẻ ra nhiều, người chăn nuôi cần đảm bảo nái tiết đủ sữa nuôi con. Trong sữa đầu và sữa thường của nái có hàm lượng lớn canxi. Chính vì vậy, để heo con phát triển tốt thì cần bổ sung canxi và vitamin D3 vào khẩu phần nái nuôi con. Chúng ta đều biết vitamin tan trong chất béo không thể truyền qua nhau thai. Chính vì vậy, mọi heo con sinh ra đều ở trong tình trạng thiếu vitamin tan trong chất béo và năng lượng. Ta cần bổ sung năng lượng cho heo con bằng cách nhanh chóng cho bú sữa đầu, rồi sữa thường của nái. Sữa đầu và sữa thường của nái đều có hàm lượng vitamin E cao và chúng dễ dàng truyền qua cho heo con. Heo con nhận được những vitamin cần thiết đều qua sữa mẹ. Ta cần bổ sung vitamin vào khẩu phần nái nuôi con, nếu sữa nái có đầy đủ chất thì heo con sẽ tăng trọng nhanh.Trước khi cai sữa, nếu heo con nhận đầy đủ vitamin thì chúng sẽ nhanh chóng vượt qua stress khi cai sữa.Nái lên giống lại sau cai sữa: Biotin giúp nái tăng cường trao đổi chất, giúp rút ngắn thời gian lên giống lại sau cai sữa. Hơn thế nữa, biotin còn hỗ trợ sản xuất estrogen, giúp giảm tình trạng không lên giống hoặc lên giống yếu.Tuổi thọ sinh sản của náiTuổi thọ sinh sản của nái có ý nghĩa quan trọng trong vấn đề kinh tế của trang trại. Nếu tỷ lệ nái lứa thấp bị đào thải nhiều thì tuổi thọ sinh sản của nái sẽ bị rút ngắn. Khi phân tích nguyên nhân đào thải nái ta thấy có 3 nguyên nhân chính đó là: năng suất kém, nái già và vấn đề chân móng. Các vấn đề trên thường liên quan tới bộ khung xương và thể trạng (Body score - BCS) của nái.Để khắc phục tình trạng này, cần bổ sung một lượng thích hợp vitamin D3 và canxi trong khẩu phần cho heo hậu bị trước khi nhập vào bầy sinh sản nhằm phát triển khung xương. Biotin giúp giảm các tình trạng tổn thương móng chân trên heo. Nguồn: heo.com.vn Theo Pig & Pork

QUẢN LÝ NÁI CAO SẢN

Lý do khiến các trại tuy đã nhập các giống heo cao sản nhưng năng suất chưa đạt được mức mong muốn: thiếu sót trong việc sử dụng chế phẩm thay thế sữa và quản lý cho ăn nái hậu bị.Ưu điểm Khuyết điểm Kết quả chăn nuôiSố heo con đẻ ra cao.Số heo cai sữa nhiều. Số heo con còi tăng.Lượng sữa/heo con giảm, tỷ lệ chết cao.Dễ dẫn tới tình trạng giảm ăn.Trọng lượng giảm mạnh thời kỳ nuôi con. Trọng lượng cai sữa giảm.Năng suất thời kỳ nuôi thịt giảm.Tỷ lệ đào thải cao, năng suất lứa tiếp theo giảm.Bảng 1: Ưu, khuyết điểm của nái cao sản.Tỷ lệ sẩy thai và heo con theo mẹ chết cao. Thiếu sữa.Nái nuôi con giảm ăn.Khó quản lý thể trạng.Thời gian đẻ kéo dài.Trọng lượng sơ sinh nhỏ.Heo giành bú sữa. Nái phải nuôi quá nhiều heo con. Thời tiết nóng, nái giảm ăn, giảm tiết sữa. Số nái đào thải tăng.Năng suất trong vòng đời giảm.Bảng 2: Những khó khăn khi quản lý nái cao sản.Nái đẻ nhiều con nhưng do trọng lượng sơ sinh thấp nên khi đó số heo con cai sữa không cao. Nái thiếu sữa nên lựa những heo con khỏe mạnh cho sử dụng các chế phẩm thay thế sữa, những heo con còi yếu sẽ tập trung cho bú sữa mẹ. Cần cho nái hậu bị ăn theo chế độ riêng để hạn chế tình trạng năng suất lứa 2 sụt giảm.Chỉ số LP5 (tỷ lệ sống heo con đến 5 ngày tuổi): trong các chỉ số cải thiện năng suất thì chỉ số LP5 chiếm tỷ trọng lớn.Cải thiện tỷ lệ sống so với tổng sinh: các nước chăn nuôi tiên tiến họ tập trung đầu tư nghiên cứu để giảm số heo con chết, tăng trọng lượng cai sữa và giảm chênh lệch trọng lượng trong bầy. Trại tập trung quản lý nái vào giai đoạn 10 ngày trước đẻ đến 3 ngày sau cai sữa để tăng tỷ lệ heo con sống. Nái được bổ sung chất dinh dưỡng để giảm số heo con còi, tăng cường lượng sữa nái sản xuất. Nguồn: koreapork

CÁC BIỆN PHÁP GIÚP THỤ TINH NHÂN TẠO THÀNH CÔNG

Thụ tinh nhân tạo có nhiều ưu điểm nhưng cũng có những khuyết điểm. Nếu ta không phối đúng thời điểm thì sẽ không mang lại hiệu quả. Phối heo sau thời điểm rụng trứng sẽ khiến lượng heo con đẻ ra giảm, tỷ lệ đẻ thấp hơn 20% so với thông thường. Xác định heo lên giống và tìm ra thời điểm phối thích hợp là chìa khóa thành công của việc thụ tinh nhân tạo.Chuyên gia thụ tinh cần phải có kỹ năng phát hiện lên giống nhanh và chính xác. Bước đầu tiên để nâng cao năng suất phối là phải tìm ra thời điểm phối thích hợp.Những điểm cần lưu ý khi muốn thụ tinh nhân tạo thành công. Nái cần được phối đúng thời điểm. Kiểm tra lên giống 2 lần/ ngày. Sau khi heo cai sữa, tùy thuộc vào số ngày lên giống lại và bình quân thời gian lên giống liên tục để đưa ra kế hoạch thụ tinh. Nếu làm được những điều trên thì tỷ lệ đẻ và số heo con đẻ ra sẽ cao.Cần kiến thức và kỹ thuật:Cần người được huấn luyện kỹ về kỹ thuật. Người quản lý trại phối mỗi ngày phải kiểm tra trại 3 ~ 4 lần, có sự yêu thích và nhiệt huyết với việc xác định nái lên giống.Nái phải được cấp cám chính xác:Nái được cho ăn đúng và đủ sẽ hỗ trợ tốt cho việc lên giống và thụ thai. Trước khi phối cần cung cấp đầy đủ dưỡng chất và chất xơ. Bổ sung thêm vitamin và các khoáng chất vi lượng khi cần thiết.Sau khi cai sữa nên di chuyển ngay:Khi cai sữa cần cách ly ngay nái và heo con. Khi lượng dinh dưỡng cung cấp cho nái giảm đột ngột và môi trường nuôi thay đổi sẽ giúp chúng lên giống.Lắp đặt đèn chiếu sáng khu vực phối:Khu vực phối cần có độ sáng khoảng 100 lux. Một đêm chiếu sáng khoảng 2 ~ 3 tiếng nhằm hỗ trợ heo lên giống. Ánh sáng khu vực phối rất quan trọng. Để hỗ trợ heo lên giống cần phải kéo dài thời gian heo tiếp xúc với ánh sáng.Cho tiếp xúc trực tiếp với heo đực:Nái cai sữa cần được tiếp xúc trực tiếp với đực 2 lần/ ngày. Do được tiếp xúc với đực, nái trở nên quen, không sợ đực.Dùng đực để kiểm tra lên giống trên 2 lần/ ngày:Để kiểm tra nái lên giống cần sử dụng heo đực (2 lần/ ngày). Duy trì tiếp xúc giữa đực và nái khoảng 5 ~ 15 phút/ lần. Nếu không có heo đực, lúc kiểm tra lên giống lần 2 phải dùng tay ấn lên lưng nái. Cần nắm rõ thời gian phối: Cần phối vào thời điểm trước khi trứng rụng khoảng 10 ~ 24 tiếng. Trứng rụng vào thời điểm 2/3 của chu kỳ lên giống. Ví dụ heo lên giống liên tục trong vòng 2 ngày (48 tiếng) thì sau 15 ~ 24 tiếng kể từ khi ấn lưng mà nái đứng im chịu đực thì ta có thể đưa vào phối. Còn nếu thời gian nái lên giống liên tục là 3 ngày (72 tiếng) thì thời điểm phối là sau 30 ~ 40 tiếng khi nái đứng im chịu đực. Những nái sau cai sữa lên giống lại nhanh, thường có thời gian lên giống liên tục dài. Ngược lại, nái lên giống lại chậm thì thời gian lên giống liên tục ngắn. Lưu ý, đối với heo hậu bị, khi xác định đã lên giống thì nên đưa vào phối nhanh.Để xác định thời điểm phối cần chú ý tới cơ thể nái. Khi âm hộ nái chuyển sang tái, không còn sưng đỏ, hoặc khi có đực đứng trước mặt, dùng tay ấn vào lưng nái vẫn đứng im trên 2 phút, thì đó là thời điểm phối thích hợp.Khi phối cho nái, nếu xoa đè vào người nái sẽ giúp tử cung nái co bóp, khiến tỷ lệ thụ thai và số heo con đẻ ra cao hơn. Cần quản lý sao cho, đa số nái phối một lần đã thụ thai, số nái phối 2 lần mới mang thai chỉ chiếm từ 30 ~ 40%.Thả đực đứng trước đầu nái khi phối:Khi tiến hành phối cho nái, nên thả đực vào trại phối cho nái nhìn thấy. Ngoài ra, khi phối nên ấn vào lưng nái hoặc cho nái đeo bao cát, vòng lưng, sẽ mang lại hiệu quả cao.Sau khi phối cho nái cần chú ý nái có lên giống không:Sau khi phối cho nái, nếu thời gian lên giống kéo dài hơn dự kiến thì nên phối thêm một lần nữa. Thời điểm phối lần 2 nên sau khi phối lần 1 khoảng 16~24 tiếng.Kỹ thuật phối phải đúng:Trước khi phối cho nái, phải vệ sinh sạch âm hộ của nái. Xoa ít dầu hoặc gel chuyên dụng vào đầu cây phối, sau đó đưa vào bên trong cổ tử cung nái bằng cách xoay ngược chiều kim đồng hồ. Thời gian tiếp nhận tinh của mỗi nái có sự khác biệt. Không được bóp mạnh để đưa tinh vào nhanh.Lựa chọn nhà cung cấp tinh tốt:Trại cần lựa chọn nhà cung cấp tinh có uy tín. Khi giao tinh, tinh phải được bảo quản ở nhiệt độ 16 ~ 170 C. Tinh phải được sử dụng trong vòng 48 tiếng kể từ khi khai thác.Tạo cảm giác an toàn cho nái sau khi được phối xong:Nái sau khi được phối xong nên nhốt ở chuồng ép trong khoảng 4 tuần. Thời gian này không được cấp cám quá nhiều và phải luôn tạo cảm giác an toàn cho nái. Kiểm tra liên tục heo có lên giống không trong vòng 19 ngày. Sau đó, có thể siêu âm để xác định nái mang thai. Theo pignpork.com

ĐỘC TỐ NẤM MỐC: CÁNH CỬA CHO CÁC BỆNH TRUYỀN NHIỄM.

Ảnh hưởng trực tiếp của độc tố nấm mốc lên sức khỏe động vật bây giờ đã đuợc biết rõ hơn. Những ảnh huởng của chúng lên hệ miễn dịch mở ra cánh cửa cho virus thường ít được thảo luận, Có nhiều lí do để nghi ngờ rằng chúng đóng vai trò nào đó trong bệnh do PRRSv, PCV2 và PENS (Porcine Ear Necrosis Syndrome). Độc tố nấm mốc là những chất biến duỡng thứ cấp khác nhau do nấm sinh ra khi phát triển trong thức ăn cho động vật. Việc hấp thụ độc tố nấm mốc, tuy ở mức chưa gây bệnh lý lâm sàng rõ rệt, có thể ức chế chức năng miễn dịch và làm giảm sức đề kháng đối với các bệnh truyền nhiễm. Sự mẫn cảm của hệ thống miễn dịch đối với độc tố nấm mốc gây suy giảm miễn dịch xuất phát từ sự nhạy cảm của các tế bào có chức năng điều hoà miễn dịch trong quá trình tăng sinh và biệt hoá liên tục của chúng.Suy giảm miễn dịch do độc tố nấm mốc làm giảm hoạt động của tế bào T, B, suy giảm sự sản xuất globulin miễn dịch và kháng thể, giảm hoạt động của bổ thể hoặc Interferon và suy giảm chức năng tế bào đại thực bào. Mặc dù cơ chế tác động gây suy giảm miễn dịch đặc hiệu của độc tố nấm mốc hiện nay chưa rõ ràng, nhưng sự ức chế tổng hợp DNA, RNA và protein thông qua một loạt các cơ chế khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan tới tác động suy giảm miễn dịch của nhiều độc tố nấm mốc.Miễn dịch đường tiêu hóaDeoxynivalenol (DON) thuộc nhóm độc tố nấm mốc trichothecene, được sản sinh bởi các loài nấm mốc Fusarium. Trong số các loài động vật dạ dày đơn, heo là loài cảm nhiễm nhất với DON, độc tố làm giảm lượng thức ăn và giảm tăng trọng rõ rệt. DON cũng đã được ghi nhận là có thể làm tăng sự cảm nhiễm với virus. Thiệt hại kinh tế do độc tố nấm mốc là không thể xác định chính xác, nhưng Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) ước tính, thu hoạch nông sản tại Mỹ thiệt hại trung bình hàng năm do độc tố nấm mốc aflatoxin, fumonisins và deoxynivalenol vào khoảng 932 triệu đô Mỹ.Niêm mạc ruột đóng vai trò như một rào cản, ngăn chặn sự xâm nhập của kháng nguyên từ bên ngoài, bao gồm protein trong thực phẩm, thuốc, độc tố, vi sinh vật cộng sinh và các mầm bệnh, vào các mô. Theo đường ăn uống, một lượng deoxynivalenol từ thấp đến trung bình sẽ tiếp xúc trước nhất với các lớp tế bào biểu mô dạ dày-ruột. Miễn dịch niêm mạc bao gồm hệ thống miễn dịch bẩm sinh và thu được có thể bị ảnh hưởng bởi DON. Các thành phần quan trọng của hệ miễn dịch bẩm sinh là các tế bào biểu mô ruột, chúng được kết với nhau bằng các liên kết chắc chắn và được phủ chất nhầy sản xuất bởi các tế bào goblet trên niêm mạc ruột. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, DON có thể làm tăng tính thấm của lớp biểu mô ruột heo và ảnh hưởng đến khả năng tồn tại và phát triển của các tế bào biểu mô ruột. Một số độc tố nấm mốc cũng có khả năng điều tiết việc sản xuất các cytokine, trong khi DON làm tăng sự sản sinh TGF-β và IFN-γ trong các tế bào biểu mô ruột. Ở cấp độ tế bào, độc tính chính của DON là sự ức chế tổng hợp protein bằng cách làm gián đoạn tổng hợp DNA và RNA. DON ảnh quan trọng đến sự phân chia của các tế bào, bao gồm những tế bào trên bề mặt đường tiêu hóa. Cần lưu ý rằng DON do gây ra quá trình chết tế bào trên đường tiêu hoá, làm biến đổi niêm mạc dạ dày, biểu mô hạt dạ dày và tế bào khe ruột.Ảnh hưởng nhiều hơn đối với virusĐộc tố nấm mốc Fusarium, bao gồm DON, làm giảm khả năng loại bỏ Reovirus ở ruột.PRRSvVirus PRRS là một loại virus lây nhiễm cao, nhân lên trong các bạch cầu đơn nhânVirus PEDCơ chế phát sinh bệnh và miễn dịch của virus PED tương tự như ở bệnh viêm dạ dày ruột.Hội chứng hoại tử tai ở heoVai trò quan trọng của độc tố nấm mốc cần được nhấn mạnh trong một bệnh quan trọng khácThay đổi tính cảm nhiễm đối với bệnh truyền nhiễmKết luận, độc tố nấm mốc có thể làm thay đổi tính cảm nhiễm của thú đối với các bệnh truyền nhiễm Nguồn: Heo.com.vn

7 CÁCH GIÚP TĂNG LƯỢNG THỨC ĂN ĂN VÀO Ở HEO CAI SỮA

Nếu lượng thức ăn ăn vào tăng thêm 100 g ở tuần đầu sau cai sữa, thì thể trọng của heo con sẽ tăng ít nhất 2 kg khi kết thúc 4 tuần sau cai sữa. Có nhiều cách để dẫn dụ heo cai sữa bắt đầu ăn vài giờ sau khi tách mẹ, nhưng chúng ta vẫn làm theo những cách thức xưa cũ khiến cho heo con bị thiếu thức ăn trong nhiều ngày.Nhiệm vụ tập ăn thức ăn khô cho heo cai sữa thường không dễ dàng gì. Lượng thức ăn ăn vào sau cai sữa luôn thấp hơn so với nhu cầu biểu hiện hết tiềm năng di truyền của sự tăng trưởng ở heo hiện đại. Thông thường, vấn đề hóc búa này được cho là do cai sữa sớm ở 2 – 3 tuần, không giống với cai sữa tự nhiên ở khoảng 8 tuần tuổi, nhưng kể cả khi cai sữa ở 3 – 4 tuần tuổi thì kết quả quan sát được cũng cho thấy không khả quan hơn.Nhiều chuyên gia dinh dưỡng gọi tình trạng này là “bỏ ăn” hay chán ăn nếu heo vẫn nhịn đói thay vì ăn thức ăn khô. Việc đến thăm chuồng heo cai sữa sẽ mang đến nhiều thông tin để có thể giải quyết các vấn đề gặp phải sau cai sữa. Heo đói thì theo bản năng sẽ tự động ăn thức ăn khô, chúng chỉ không biết là thức ăn nằm ở đâu và tìm thấy như thế nào. Theo kinh nghiệm của tôi, không phải việc heo bỏ ăn là vấn đề mà là không nhận ra được những tập tính của heo con và giúp chúng thích nghi với hệ thống cho ăn mới là vấn đề thực sự.Vì vậy, trong các điều kiện chăn nuôi công nghiệp, heo cai sữa luôn phải trải qua tình trạng thiếu thức ăn không tự nguyện. Điều này làm tăng chi phí sản xuất và làm giảm hiệu suất tăng trưởng ở giai đoạn nuôi thúc, ảnh hưởng tiêu cực đến tổng lợi nhuận thu được. Không bình thường khi heo nhịn đói trong 3 đến 5 ngày sau khi cai sữa, nếu mọi thứ được thực hiện tốt ngay từ ban đầu, heo con nên bắt đầu ăn trong vòng vài giờ sau khi chuyển đến chuồng cai sữa . Hãy để chúng tôi kiểm tra làm thế nào điều này có thể được thực hiện:Chọn thức ăn sau cai sữa phù hợp nhấtNgay cả trong kịch bản tài chính tồi tệ nhất của trại, thì việc cắt giảm chi phí thức ăn heo con không phải là một động thái khôn ngoan nhất. Khẩu phần cho heo con phải là khẩu phần tốt nhất và cũng tốn kém nhất, nhưng may mắn đây chỉ là một giai đoạn ngắn và chúng ta không phải cho ăn quá lâu để đạt được lợi ích mong muốn: tập cho heo ăn thức ăn khô. Đầu tiên nên cung cấp một khẩu phần cân bằng và ngon miệng để thu hút heo tìm đến thức ăn, sau khi heo đã ăn, có thể thay thế bằng một khẩu phần ít tốn kém hơn. Có thể cho heo con ăn đến 2 kg thức ăn/heo, nhưng nếu việc quản lý thức ăn được thực hiện đúng cách chỉ cần cho ăn 250 g/con là đủ. Heo con sẽ tìm kiếm thức ăn trên sàn chuồng theo bản năng.Bắt đầu cho ăn trên đệm lót sàn chuồngHầu hết các nhà chăn nuôi sẽ cung cấp thức ăn khô (thường là dạng viên) ở các máng ăn thông thường và kỳ vọng heo con nhận ra. Nhưng điều này hoàn toàn sai. Heo con sẽ tìm kiếm thức ăn trên sàn theo bản năng và việc rãi một lượng nhỏ thức ăn trên đệm lót sàn chuồng sẽ kích thích heo con đánh hơi và tìm đến thức ăn khô. Cũng nên đặt thức ăn cả trong máng tập ăn thông thường hay máng nhựa. Thức ăn viên là lựa chọn tốt nhất cho khẩu phần thứ 2 và luôn luôn phải trộn chung với thức ăn tập ăn đầu tiên.Sử dụng nguyên liệu đặc biệtCó 2 loại nguyên liệu/phụ gia thức ăn: một là làm tăng khả năng tiêu hóa/tính thèm ăn, loại còn lại là tăng cường chức năng đường ruột. Thực tế, tăng cường sức khỏe đường ruột đảm bảo heo sẽ đạt được tiềm năng tối đa, trong khi tăng khả năng tiêu hóa rất cần cho heo khi ăn khẩu phần sau này. Những nguyên liệu này có thể là kháng sinh kích thích tăng trưởng (một số nơi vẫn sử dụng); kẽm oxít và đồng sunfat ở liều dược lý (hoặc các chất thay thế ở liều thấp hơn); các axít hữu cơ (liều cao); globulin miễn dịch trong thức ăn (từ protein trứng miễn dịch cao hay huyết tương động vật); và có thể là lactose. Nguồn protein tiêu hóa cao như bột cá, sữa tách béo và gluten lúa mì cũng có tác dụng kích thích sinh trưởng.Cân đối chi phí thức ănMặc dù khẩu phần chất lượng cao cho heo con rất hữu ích trong việc gia tăng năng suất tăng trưởng sau cai sữa, nhưng những lợi ích này có thể dễ dàng bị mất đi nếu chúng được cho ăn khẩu hần này trong thời gian quá dài (heo sẽ bị tiêu chảy với khẩu phần giàu đường/lactose) hay với lượng thức ăn cho heo cai sữa chưa phù hợp theo trọng lượng (hao phí). Tính toán chi phí thức ăn hợp lý với khẩu phần tốt hơn cho nhóm heo con nhẹ cân và giảm bớt ở nhóm nặng cân. Tuy nhiên, có một lỗi phổ biến thường không được để ý là heo nặng cân bú nhiều sữa và do đó chúng mất nhiều thời gian hơn so với nhóm heo nhẹ cân để thích nghi với khẩu phần ăn khô. Do vậy, đầu tiên nên cung cấp khẩu phần cân đối cho cả heo có trọng lượng nặng nhất.Sữa thay thếHeo cai sữa sẽ dễ dàng tiêu thụ sữa thay thế dạng lỏng, ấm ở nhiệt độ thích hợp. Cung cấp sữa thay thế trong 3 – 4 ngày có thể giúp tăng gấp đôi lượng chất khô ăn vào so với cho ăn thức ăn tập ăn dạng viên. Tuy nhiên, heo chỉ được cho ăn thức ăn lỏng có thể khó thích nghi với thức ăn khô trừ khi sữa thay thế được kết hợp với khẩu phần tập ăn chất lượng cao hoặc sữa dạng viên. Sữa thay thế tốt nhất chỉ nên dùng cho heo con nhẹ cân hay heo mất mẹ để giảm chi phí. Đầu tư vào thiết bị hoặc nhân công cũng cần phải được chú ý để đạt lợi ích tốt nhất từ sữa thay thế.Thức ăn lỏngỞ những trại chăn nuôi mà heo được cho ăn thức ăn khô, heo cai sữa có thể được cung cấp hỗn hợp cháo ấm gồm thức ăn và nước (50:50) trong hai hoặc ba ngày đầu sau cai sữa. Biện pháp này ngăn ngừa tình trạng đói và quan trọng hơn là mất nước ở heo. Trừ khi cháo được chế biến đặc dần (70:30), một số heo con có thể không thích nghi với thức ăn khô. Sự lắng đọng chất rắn trong các bát không phải là vấn đề nếu máng vẫn còn đầy nước. Kết quả thực tế cho thấy biện pháp này rất đáng khích lệ.Vẫn phải cho ăn tập ăn dù có hiệu quả hay khôngGiả sử heo con được cai sữa sau 21 ngày tuổi, thức ăn tập ăn nên bắt đầu ngay ở 4 ngày tuổi. Không nên tập ăn sớm quá, không phải vì heo sẽ không ăn thức ăn, mà do hầu hết các thức ăn như vậy chứa sucrose và trước độ tuổi này heo con không sử dụng sucrose, làm cho sucrose trở thành chất độc. Ngay cả khi heo con không ăn đủ thức ăn tập ăn để đem lại lợi ích rõ ràng khi cai sữa (trọng lượng cao hơn), nhưng kinh nghiệm của chúng với thức ăn tập ăn sẽ giúp chúng sớm quen với thức ăn khô trong các máng thông thường, giảm việc rải thức ăn trên đệm hay nhu cầu thức ăn lỏng. Tất nhiên, công thức thức ăn tập ăn đúng và phương pháp cho ăn phù hợp có thể sản xuất heo cai sữa có thể trọng tốt hơn.Sau hơn 25 năm nghiên cứu, lập khẩu phần, sản xuất và cố vấn về thức ăn cho heo con và cách cho ăn, tôi không thể chấp nhận rằng heo không chịu ăn và bị đói sau cai sữa, đó là lỗi do chúng ta cho ăn không đúng cách. Chúng ta nên lựa chọn đúng loại thức ăn dành cho heo con và tập huấn cho đội ngũ nhân viên chăn nuôi sao cho heo con bắt đầu ăn không phải trong vài ngày mà là vài giờ sau khi cai sữa. Theo wattagnet.com

QUẢN LÝ DINH DƯỠNG TRƯỚC VÀ SAU CAI SỮA ĐỂ GIẢM CHI PHÍ CÁM

Vấn đề của những nước chăn nuôi kém phát triển là chi phí chăn nuôi quá cao. Trong đó, chi phí cám chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giá thành, chúng chiếm từ 60 ~ 70% giá thành sản xuất. Các trại quản lý tốt vấn đề cho ăn thì sẽ thu được nhiều lợi ích. Bài viết sẽ trình bày một số phương pháp giúp giảm chi phí cám trong chăn nuôi.Chi phí cám cao do FCR cám cao. Có 3 nguyên nhân chính khiến FCR cám tăng cao: thứ nhất là tỷ lệ chết cao, thứ hai là cấp cám không phù hợp với từng giai đoạn nuôi, thứ ba là cám lãng phí nhiều. Nếu quản lý tốt tỷ lệ chết và cấp cám phù hợp với từng giai đoạn ta sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí cám.Quản lý tỷ lệ chết: heo con nhận được kháng thể thông qua sữa đầu, các kháng thể nhận từ mẹ sẽ giúp heo con có sức đề kháng chống lại dịch bệnh từ bên ngoài. Các kháng thể nhận được từ sữa mẹ sẽ đạt mức cao nhất khoảng 1 ~ 2 ngày sau khi bú sữa đầu, sau đó lượng kháng thể này sẽ giảm dần. Khi lượng kháng thể này giảm dần, nếu heo chưa được chích vắc-xin thì khả năng nhiễm bệnh sẽ cao. Chính vì vậy, việc quản lý dinh dưỡng khoảng thời gian trước và sau cai sữa rất quan trọng.Cho heo con ăn cám tập ăn thời gian theo mẹ: Độ lớn của heo con và lượng sữa nái tiết ra sẽ tỷ lệ nghịch với nhau. Nghĩa là khi heo con càng lớn thì lượng dinh dưỡng chúng cần càng tăng (nhưng lượng sữa nái tiết ra lại giảm). Trọng lượng heo lúc mới sinh chỉ khoảng từ 1 ~ 1,5 kg, nhưng chỉ sau 1 tuần trọng lượng chúng lại tăng gấp đôi, đến khi cai sữa thì trọng lượng chúng tăng gấp 5 lần so với lúc mới sinh. Khi lượng sữa nái tiết ra giảm, ta cần bổ sung thêm dinh dưỡng cho heo con. Ta có thể cho heo con ăn cám tập ăn, nên cho heo con ăn vào lúc trên dưới 10 ngày tuổi. Lượng cám cho heo ăn sẽ tăng dần theo từng ngày, nhưng khuyến cáo cho ăn nhiều lần, mỗi lần một chút. Có một số trại cho ăn cám tập ăn trộn với chế phẩm thay thế sữa trong thời gian theo mẹ nhằm giúp nái đỡ hao mòn thể lực (đặc biệt giảm tình trạng năng suất sụt giảm ở lứa thứ 2).Quản lý dinh dưỡng sau khi cai sữa:Cai sữa là giai đoạn heo con chịu nhiều stress nhất. Giai đoạn cai sữa, hệ tiêu hóa và miễn dịch heo con chưa ổn định. Cám ăn vào những ngày đầu sau cai sữa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tế bào nhung mao đường ruột. Thời gian đầu, các tế bào nhung mao chưa phát triển kịp khiến heo con không lớn. Ta cần cung cấp đầy đủ dưỡng chất để hệ tiêu hóa hấp thu và giúp heo có khả năng chống lại các dịch bệnh. Những heo con có trọng lượng quá thấp cần gom lại quản lý tập trung. Heo con đã được tập ăn từ trước sẽ dễ dàng thích ứng hơn khi bước vào thời kỳ cai sữa. Cám cho heo con giai đoạn cai sữa nên có hàm lượng dinh dưỡng cao.Quản lý tỷ lệ cám cho heo con:Mỗi tháng trại sẽ nhập nhiều loại cám. Chúng ta cần thống kê dữ liệu để xem số lượng cám từng loại tăng giảm như thế nào. Tỷ lệ cám cho heo con của mỗi trại có sự khác biệt. Trại sử dụng nhiều có thể chiếm tới 7 ~ 8% tổng lượng cám, trại sử dụng ít thì chỉ chiếm khoảng 2 ~ 3% tổng lượng cám sử dụng. Tỷ lệ sử dụng cám heo con phụ thuộc vào giá heo và tình hình tài chính của trại. Tuy vậy, cám heo con sẽ ảnh hưởng rất lớn tới ngày tuổi xuất chuồng. Nếu tỷ lệ này giảm quá nhiều sẽ không tốt cho năng suất của trại. (Trích Ấn Phẩm Chăn Nuôi Heo)

DINH DƯỠNG CHO NÁI HẬU BỊ THỜI KÌ MANG THAI

Sự phát triển của heo con ở trại đẻ phụ thuộc hoàn toàn vào lượng sữa mẹ. Năng lực tiết sữa của nái lứa đầu phụ thuộc rất nhiều sự phát triển của nái và các tổ chức tế bào của tuyến vú. Các tế bào tuyến vú càng nhiều thì lượng sữa tiết càng lớn. Sự phát triển tuyến vú của nái hậu bị từ lúc phối đến mang thai 50 ngày chỉ dừng lại ở mức cơ bản.Phát triển tuyến vú cho nái hậu bị:Sự phát triển của heo con ở trại đẻ phụ thuộc hoàn toàn vào lượng sữa mẹ. Năng lực tiết sữa của nái lứa đầu phụ thuộc rất nhiều sự phát triển của nái và các tổ chức tế bào của tuyến vú. Các tế bào tuyến vú càng nhiều thì lượng sữa tiết càng lớn. Sự phát triển tuyến vú của nái hậu bị từ lúc phối đến mang thai 50 ngày chỉ dừng lại ở mức cơ bản. Tuy nhiên, từ ngày mang thai 50 tới 100, tuyến vú phát triển gấp 5 lần thời gian trước đó. Trong đó, khoảng thời gian từ 75~90 ngày là quan trọng nhất do tuyến vú thời kì này phát triển gấp 3 lần. Khả năng phát triển tuyến vú có thể được dự đoán qua phân tích số lượng DNA tuyến vú, vì mỗi tế bào tuyến vú có một lượng DNA cố định. Sự phát triển của tuyến vú hậu bị phụ thuộc rất nhiều vào mức độ dinh dưỡng của cám. Những nái có nhiều mỡ thì số lượng tế bào tuyến vú thường ít, ngược lại, nếu mỡ ít thì số tế bào tuyến vú sẽ nhiều.Thí nghiệm nuôi dưỡng cám năng lượng cao và năng lượng thấp:Các nhà nghiên cứu người Úc đã tiến hành thí nghiệm cho nái mang thai ăn cám có độ đạm thấp (đạm thô 6,3%/kg) - năng lượng cao (16,6 MJ DE/kg) và cám độ đạm cao (đạm thô 15,8%/kg) - năng lượng phù hợp (14,1 MJ DE/kg). Sau khi nái đẻ, cho cả hai nhóm heo ăn cùng loại cám nái nuôi con (đạm thô 18,9% 14,3 MJ DE/kg). Hậu bị trong thời gian mang thai nếu ăn cám có độ đạm thấp sẽ có mỡ lưng dày hơn so với hậu bị ăn cám có độ đạm cao (34,7 mm và 28,2 mm).Heo hậu bị sau khi đẻ, heo con sẽ được cho bú sữa đầu rồi chuyển heo con đi. Sau đó, những hậu bị này nhận heo con 14 ngày tuổi về nuôi và sẽ nuôi trong vòng 14 ngày để phân tích khả năng phát triển của heo con.Kết quả là tăng trọng ngày của bầy heo con nhóm heo hậu bị ăn cám độ đạm cao, nhiều hơn 50% so với nhóm còn lại (2,22 kg và 1,45 kg/ngày/ bầy) (bảng 1). Nái có độ dày mỡ lưng mỏng sản xuất sữa trong vòng 2 tuần với năng suất 13 lít/ngày.Kết luận:Nái hậu bị mang thai tránh cho ăn quá nhiều, cám cho heo ăn cần có độ đạm, năng lượng thích hợp và trước khi đẻ nên đo độ dày mỡ lưng nái. 

TIÊU DIỆT KÍ SINH TRÙNG TRÊN HEO

Thiệt hại của kí sinh trùng gây ra trên heo:Kí sinh trùng không gây chết nhanh trên heo, nhưng đó là loại bệnh mãn tính làm giảm năng suất, gây thiệt hại kinh tế. Chất dinh dưỡng bị mất đi khiến FCR cám bị ảnh hưởng và tốc độ lớn giảm. Nội kí sinh trùng là các vi sinh vật sống trong cơ thể vật chủ, phá hủy và gây tổn thương các cơ quan tổ chức của cơ thể. Ngoại kí sinh trùng như rận, rệp gây ngứa, cứng cơ, stress trên heo.Tuy không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng khi thấy tăng trọng giảm, số ngày xuất chuồng chậm thì nên nghi ngờ trại đã bị dính kí sinh trùng.Các loại kí sinh trùng: Kí sinh trùng là loài động vật không xương sống ký sinh trên bề mặt cơ thể (ngoại kí sinh trùng) hoặc bên trong cơ thể (nội kí sinh trùng) của các loài sinh vật khác. Các loại kí trùng thường kí sinh trên vật chủ nhất định. Vật chủ chia làm hai loại là vật chủ trung gian và vật chủ chính. Vật chủ trung gian là vật chủ chứa kí sinh trùng trong giai đoạn đang phát triển. Vật chủ chính là vật chủ chứa kí sinh trùng trong giai đoạn gây hại.Kí sinh trùng có thể lây nhiễm qua đường miệng hoặc qua da. Ở trại heo, nội kí sinh trùng thường gặp là giun đũa và ngoại kí sinh trùng là Mange, Sarcopetes scabiei gây bệnh ghẻ trên heo.Giun đũa (Ascaris suum) gây bệnh trên heo:Giun đũa là loại kí sinh trùng có màu trắng sữa, có thể quan sát thấy ở trong phân heo. Giun trưởng thành sẽ kí sinh ở ruột non, ấu trùng thì xuất hiện ở các cơ quan khác trong cơ thể (đặc biệt là ở gan và phổi). Vòng đời của giun đũa: "trứng có phôi → nhiễm qua đường miệng → ruột non → ấu trùng gan → tim → phổi ruột non → giun trưởng thành bài tiết trứng". Giun trưởng thành có thể dài tới 40 cm, dày khoảng 7 mm. Một giun cái có thể đẻ tới 250.000 trứng/ngày. Nếu trứng được bao bọc với lớp vỏ dày chúng có thể sống được tới 6 năm ở môi trường áo – quần lao động, khoảng trống ở trại.Giun đũa chủ yếu gây hại cho heo từ 6 – 12 tuần tuổi, chúng đục thủng gan, gây viêm tạo thành các đốm trắng ở gan (Milk Spot), tăng trọng và FCR bị ảnh hưởng khoảng 10%. Ngoài ra, chúng còn gây các triệu chứng bệnh hô hấp, tiêu chảy, giảm chức năng miễn dịch.Cái ghẻ trên heo (Mange, Sarcopetes scabiei): Cái ghẻ có độ lớn khoảng 0,5 mm, chúng có màu nâu hoặc trắng nên ta có thể quan sát bằng mắt thường nếu để trên phông màu đen. Cái ghẻ (trứng, ấu trùng, cái ghẻ chưa trưởng thành, cái ghẻ trưởng thành) thường sống trên bề mặt da phía trong tai heo, phát triển thành một ổ cái ghẻ, sau đó chúng lây ra toàn thân heo. Vòng đời của cái ghẻ khoảng từ 10 – 14 ngày, nếu rời khỏi da heo thì chúng sẽ chết trong vòng 5 ngày.Cái ghẻ có thể lây nhiễm ngang bằng con đường tiếp xúc trực tiếp giữa heo với nhau (đặc biệt là heo đực) hoặc tiếp xúc với nền chuồng có cái ghẻ. Lây nhiễm dọc từ nái chuyển sang heo con.Triệu chứng, heo bị ngứa, thường hay lắc tai, cọ da vào thành tường hay chuồng, trên da sẽ xuất hiện các đốm đỏ có thể quan sát thấy ở tai, vòng quanh cổ, phía trước móng chân, phía khớp chân...Biện pháp khắc phục bệnh do kí sinh trùng: Do bệnh có thể lây nhiễm khi heo ăn hoặc tiếp xúc với tác nhân gây bệnh nên ta cần áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Cần có các biện pháp quản lý và diệt kí sinh trùng thích hợp.Trứng của kí sinh trùng cần độ ẩm và nhiệt độ thích hợp để phát triển, nên dưới ánh nắng trực tiếp và môi trường khô thì thời gian sống của trứng và ấu trùng sẽ bị giảm đi. Nếu chỉ sử dụng thuốc sát trùng để tiêu diệt trứng kí sinh trùng thì rất khó tiêu diệt hết. Ta cần áp dụng đồng thời các biện pháp dưới đây:Kiểm tra heo sau khi giết mổ (gan, da) để đánh giá tình trạng nhiễm kí sinh trùng của heo trong trại.Áp dụng cùng vào – cùng ra (All in – all out).Xịt rửa, tiêu độc, giữ khô.Nhập heo hậu bị sạch không nhiễm kí sinh.Diệt kí sinh trùng cho heo hậu bị.Nái có thể lây nhiễm kí sinh trùng cho heo con, nên cần phải kiểm soát được giun đũa, cái ghẻ trên nái. Định kỳ 6 tháng/lần, cần sử dụng Ivermectin để diệt nội – ngoại kí sinh trùng, khi chuyển nái sang trại đẻ nên tắm rửa để diệt ngoại kí sinh trùng.Đối với heo đực ta diệt kí sinh trùng/3 tháng/lần.Với heo con, để diệt giun đũa, sử dụng thuốc diệt nội kí sinh cho heo con ở 8 tuần tuổi, và sau đó 6 tuần áp dụng nhắc lại. Khu vực heo thịt cần áp dụng diệt kí sinh trùng định kỳ, nếu heo có triệu chứng nhiễm bệnh thì cần diệt bổ sung.Diệt kí sinh trùng nâng cao năng suất sinh sản: nếu thực hiện tốt thì các chỉ số năng suất như tăng trọng ngày, FCR cám sẽ được cải thiện, giảm được stress trên heo.  Theo Koreapork

Môi trường chăn nuôi

TIÊU DIỆT KÍ SINH TRÙNG TRÊN HEO

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Thiệt hại của kí sinh trùng gây...

Tiềm năng, lợi thế chăn nuôi bò thịt, bò sữa của Thủ đô

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Là Thủ đô song Hà Nội vẫn...

DINH DƯỠNG CHO NÁI HẬU BỊ THỜI KÌ MANG THAI

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Sự phát triển của heo con ở...

QUẢN LÝ DINH DƯỠNG TRƯỚC VÀ SAU CAI SỮA ĐỂ GIẢM CHI PHÍ CÁM

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Vấn đề của những nước chăn nuôi...

NHU CẦU VITAMIN CỦA GÀ

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Để nuôi gia cầm thành công, người...

NHU CẦU KHOÁNG CỦA GÀ

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Để nuôi gia cầm thành công, người...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO SULPHONAMID

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
1. Triệu chứng Gà trúng độc Sulphonamid...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO FURAZOLIDON

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
1. Triệu chứng Khi dùng Furazolidon phòng...

BỆNH NGỘ ĐỘC THỨC ĂN DO ĐỘC TỐ AFLATOXIN

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO MUỐI

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Muối là một trong những thành phần...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO SELENIUM (Se)

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Selen là một trong những nguyên tố...

BỆNH DO TRÚNG ĐỘC KHÍ NH3

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Khí NH3  được sinh ra từ chất...

BỆNH TRÚNG ĐỘC KHÍ CO

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Lượng khí CO được sinh ra do...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO FORMALDEHYDE

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Formaldehyde hay còn gọi là formon. Dung...

BỆNH SƯNG GAN THẬN TRÊN GÀ

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh sưng gan và thận thường xảy...

BỆNH HỘI CHỨNG XUẤT HUYẾT VÀ PHÌ GAN

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh FLHS là biểu hiện một quá...

BỆNH DO SUY DINH DƯỠNG TRÊN GIA CẦM

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu hụt dinh dưỡng gây rối...

BỆNH THIẾU VITAMIN A

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Đặc điểm của bệnh thiếu vitamin A...

BỆNH THIẾU VITAMIN D

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin D trong đàn gà...

BỆNH THIẾU VITAMIN E

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin E thường hay gặp...

BỆNH THIẾU VITAMIN K

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin K ở gà có...

BỆNH THIẾU VITAMIN B1

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin B1 ở gà thể...

BỆNH THIẾU VITAMIN B2

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin B2 có đặc điểm...

BỆNH THIẾU VITAMIN B5

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu axit Pantothenic ở gia cầm...

BỆNH THIẾU AXIT NICOTINIC – VITAMIN B3

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu axit Pantothenic ở gia cầm...

BỆNH THIẾU PYRIDOXIN (VITAMIN B6)

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Đặc điểm của bệnh này là giảm...

BỆNH THIẾU BIOTIN (VITAMIN H)

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Gà mắc bệnh thiếu Biotin có đặc...

BỆNH THIẾU AXIT FOLIC

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Axit folic hay còn gọi là vitamin...

BỆNH THIẾU CHOLINE

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Chất Choline còn được gọi là vitamin...

BỆNH THIẾU VITAMIN B12

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Vitamin B12 cần thiết cho sự phát...

BỆNH THIẾU SELENIUM

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu Selenium ở gà có đặc...

BỆNH THIẾU CANXI VÀ PHOTPHO (Ca, P)

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Canxi và photpho là 2 nguyên liệu...

BỆNH THIẾU MANGAN (Mn)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Mangan được hấp thu qua đường tiêu...

BỆNH THIẾU MUỐI (NaCl)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
NaCl là một loại muối bao gồm...

BỆNH THIẾU KẼM (Zn)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Kẽm là một nguyên tố vi lượng...

BỆNH THIẾU (Mg)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Mg trong cơ thể động vật chiếm...

BỆNH DO ĐÓI TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh đói ở gà thường thể hiện...

BỆNH DO MẤT NƯỚC TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Gà bị thiếu nước hay mất nước...

BỆNH DO LẠNH TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Gà bị lạnh với biểu hiện đứng...

BỆNH DO NÓNG TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Nhiệt độ quá nóng trong chuồng nuôi...

BỆNH DO TỔN THƯƠNG TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Đây là một bệnh nội ngoại khoa...

BỆNH THIẾU KALI TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Kali trong cơ thể có tác dụng...

BỆNH VIÊM THẬN SỚM Ở GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh chỉ thấy xuất hiện ở gà...

BỆNH MỆT MỎI CỦA GÀ ĐẺ CÔNG NGHIỆP

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh CLF thường xảy ra ở gà...

BỆNH CÒI XƯƠNG

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Đây là bệnh thường phổ biến ở...

BỆNH MỀM ĐỐT SỐNG

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thường thấy ở gà thịt giai...

BỆNH SỤN HOÁ XƯƠNG BÀN CHÂN

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh sụn hoá xương chày, xương bàn...

BỆNH GOUT

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh gout trên gà chia làm hai...

Kỹ thuật phòng và chữa bệnh cho vịt

12 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Sở hữu tổng đàn gia súc, gia...

LỰA CHỌN HỆ THỐNG CẤP NƯỚC CHO ĐÀN GÀ

12 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Ai cũng biết nước là nguồn dinh...

7 CÁCH GIÚP TĂNG LƯỢNG THỨC ĂN ĂN VÀO Ở HEO CAI SỮA

12 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Nếu lượng thức ăn ăn vào tăng...

ĐỘC TỐ NẤM MỐC: CÁNH CỬA CHO CÁC BỆNH TRUYỀN NHIỄM.

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Ảnh hưởng trực tiếp của độc tố...

BỔ SUNG CHẤT ĐIỆN GIẢI CHO GÀ

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Không khí nóng gây thiệt hại rất...

CÁC BIỆN PHÁP GIÚP THỤ TINH NHÂN TẠO THÀNH CÔNG

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Thụ tinh nhân tạo có nhiều ưu...

QUẢN LÝ NÁI CAO SẢN

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Lý do khiến các trại tuy đã...

NUÔI DƯỠNG GÀ VÀO MÙA NÓNG

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Thông qua việc tạo và giải phóng...

VITAMIN VÀ NĂNG SUẤT SINH SẢN CỦA HEO

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Một trong những yếu tố quan trọng...

BỆNH TGE TRÊN HEO – TRANSMISSBLE GASTROENTERITIS OF SWINE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH LỞ MỒM LONG MÓNG – FOOT AND MOUTH DISEASE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH MỤN NƯỚC TRÊN HEO – SWINE VESICULAR DISEASE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH MỤN NƯỚC TRONG MIỆNG HEO – SWINE VESICULAR STOMATITIS

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH PED TRÊN HEO – PORCINE EPIDEMIC DIARRHAE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH ĐẬU HEO – SWINE POX

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH VIÊM NÃO NHẬT BẢN TRÊN HEO – SWINE JAPANESE B ENCEPHALOMYETIS

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH VIÊM NÃO DO VIRUS NIPAH TRÊN HEO – NIPAH ENCEPHALITIS IN PIG

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

HỘI CHỨNG CÒI CỌC TRÊN HEO – POST WEANING MULTI SYSTEMIC WASTING SYNDROM

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH SẢY THAI DO PARVOVIRUS TRÊN HEO – PARVOVIRUS DISEASE OF SWINE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH PPRS TRÊN HEO – PORCINE REPRODUCTIVE AND RESPYRATORY SYNDROME

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH GIẢ DẠI TRÊN HEO – AUJESZKY

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH CÚM HEO – HOG FLU

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH DỊCH TẢ CHÂU PHI – AFRICA SWINE FIVER

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH DỊCH TẢ HEO – HOG CHOLERA

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH SƯNG PHÙ ĐẦU TRÊN GÀ – AVIAN PNEUMOVIRUS (APV)

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

HỘI CHỨNG CÒI CỌC DO REOVIRUS – REO

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH CÚM GIA CẦM – AVIAN INFLUENZA (AI)

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH BẠI HUYẾT TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH KHẸC TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH HUYẾT TRÙNG TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH E. COLI TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH THƯƠNG HÀN TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm