dinh dưỡng

ẢNH HƯỞNG CỦA DINH DƯỠNG TỚI VIỆC CẢI THIỆN KHẢ NĂNG MỌC LÔNG Ở GÀ THỊT

Thành phần dinh dưỡng, lượng ăn vào hay các chất kháng dinh dưỡng và các chất phụ gia khác có trong khẩu phần ăn đều có ảnh hưởng đến sự phát triển của lông vũ gà.Do lông vũ có hàm lượng protein và axit amin cao nên 2 loại chất này rất đáng được các nhà chăn nuôi quan tâm hơn. Nhiều nghiên cứu cho thấy, hàm lượng protein, cụ thể hơn là protein thô trong khẩu phần ăn có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái tạo lông.Khi cho gà ăn khẩu phần nhiều protein thô hơn thì cho thấy gà có nhiều lông hơ Mặc khác việc lông kém là một vấn đề đáng lo ngại. Khi gà con nhỏ hơn 10 – 15 ngày tuổi được cho ăn khẩu phần ăn dưới 16% protein thì thường có bộ lông kém phát triể Ở gà giống, bộ lông của gà thịt hay màu chân của gà mái luôn là khía cạnh được quan tâm nhiều nhất trong quá trình chăn nuôi gà suốt nhiều thập kỷ. Trong thời gian trở lại đây, sự phát triển của lông gà cũng đã được quan tâm nhiều hơn như việc lông rụng xuất hiện ở 45 tuần tuổi trước 8-10 tuần. Nếu lông có vẻ khô, giòn và dễ gãy thì các vấn đề này có thể liên quan đến chất lượng lông phát triển kém, lông bị tổn thương hoặc do cả hai yếu tố hoặc có liên quan tới việc giao phối muộn khi đẻ (do da trần của gà mái bị gà trống cào) và khả năng chịu lạnh kém hơn do lớp lông che phủ giảm. Nếu lớp lông che phủ kém trong những tháng mùa đông kết hợp với việc không tăng khẩu phần ăn đôi khi sẽ dẫn tới lông kém phát triển.1. Protein có lợi cho sự phát triển lông ở gà hậu bị.Do sự thay lông và mọc lông gần như liên tục trong giai đoạn đẻ trứng ở gà hậu bị nên chế độ dinh dưỡng phải tối ưu để lông có thể phát triển bình thường.a. Kiểm soát tốt khối lượng cơ thể là chìa khóa của vấn đề này. Nếu khối lượng gà hậu bị vượt quá đường cong tăng trưởng trong giai đoạn phát triển và phải sử dụng các biện pháp giảm lượng ăn để giảm sự tăng trưởng thì khi đó chất lượng lông có thể bị ảnh hưởng. Một lần nữa, việc chú ý theo dõi đường cong tăng trưởng ở gà hậu bị và khi đưa gà vào sản xuất có thể giúp giảm thiểu các vấn đề về lông trong giai đoạn đẻ. Một nghiên cứu được thực hiện ở Đại Học Auburn, khi sử dụng mức protein khác nhau ở gà hậu bị cho đến 6 tuần tuổi, cho thấy sự khác biệt đáng chú ý về khả năng mọc lông ở 10 tuần tuổi.b. Thức ăn khởi động của gà hậu bị có khoảng 19 đến 20% protein thô - Thường được sử dụng trong bốn tuần tuổi đầu nhưng nếu kéo dài thời gian cho ăn thức ăn khởi động tới 6 tuần tuổi có thể giúp tăng được lượng protein ăn vào sớm và tăng cường sự sớm phát triển của lông. Mặc dù những con gà hậu bị có ba lần thay lông trước khi đạt sản lượng trứng cao nhất, nhưng khi dinh dưỡng giai đoạn đầu tốt giúp tăng cường chất lượng lông vẫn có thể được đưa vào chuồng đẻ.  - Một số loại protein thô hiện nay đang được nhiều nhà máy sản xuất thức ăn sử dụng nhưđạm đơn bào dạng lỏng FML, đạm đơn bào dạng bột Ajtein, đạm đơn bào dạng viên Vedafeed với tỷ lệ đạm từ 25% – 60%. Loại đạm thô này có giá thành hợp lý, chất lượng cao được đảm bảo chỉ tiêu từ nhà sản xuất. 2. Các phương pháp tiệm cận từ dinh dưỡng Lông có cấu tạo chủ yếu từ protein, và các công ty chăn nuôi gia cầm đã thực hiện một số thay đổi để tăng lượng acid amin mà gà mái cần để tối đa hóa sự phát triển lông hoặc tăng các khoáng vi lượng hoặc vitamin có liên quan tới việc tạo ra protein ở lông.a. Acid aminBất kỳ cuộc thảo luận nào đến sự liên quan của dinh dưỡng đối với việc giúp lông vũ phát triển đều tập trung vào 2 loại acid amin chính đó làCytine và Methionine có trong khẩu phần ă Ngoài ra, các axit amin chủ yếu tham gia vào quá trình tổng hợp keratin lông vũ là các amin chứa lưu huỳnh và 2 loại trên. Tỷ lệ của các axit amin chứa lưu huỳnh có trong da thường lớn hơn nhiều so với trong mô cơ. Do đó, sự thiếu hụt nhẹ các axit amin này trong chế độ ăn của gà sẽ khiến chúng mọc lông bất thường. Cystine là axit amin phổ biến nhất trong lông vũ, chiếm khoảng 9% tổng số axit amin, mặc dù valine, arginine và leucine cũng có nồng độ cao. Đây là một tính toán thú vị để đo tỷ lệ axit amin được gà thịt tiêu thụ mỗi tuần (Bảng 1). Nếu những tính toán này là chính xác thì điều đó chỉ ra rằng lượng valine và arginine hấp thụ cũng rất quan trọng cho sự phát triển của lông.Bảng 1 –Tính tỷ lệ axit amin tiêu hóa tích tụ trong lông của gà thịt lai Ross 708.Tuổi Lysine Meth     Cys Threo Valine   Arg0-10 ngày 8% 8% 84% 12% 28% 21%11-24 ngày 6% 6% 62% 9% 21% 16%24-39 ngày 5% 5% 52% 8% 18% 14%40-56 ngày 3% 4% 36% 5% 12% 9%   Mặc dù Methionine và Cystine là những thành phần quan trọng của lông nhưng chỉ có thể bổ sung Methionine thông qua thức ăn của gia cầm. Nhiều công ty chăn nuôi gia cầm thịt đã tăng lượng Methionine trong thức ăn gà giống của họ bằng cách tăng tổng tỷ lệ acid amin chứa lưu huỳnh (TSAA) – so với lysine trong giai đoạn hậu bị và đẻ.Trong nhiều trường hợp, tỷ lệ TSAA tiêu hóa trên lysine tiêu hóa là xấp xỉ 100 đến 105% để kích thích sự phát triển lông.Trong khi Methionine và Cystine nhận được nhiều sự quan tâm tới quá trình tạo lông thì các acid amin khác không nên bị bỏ qua vì chúng có thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo lô Các acid amin chuỗi nhánh (valine, isoleucine và leucine)và arginine có hàm lượng tương đối cao trong protein ở lông. Một số chuyên gia dinh dưỡng đặt mức tối thiểu cho các dinh dưỡng này, trong khi một số khác đặt mức protein tối thiểu để bảo đảm hơn.Tăng hàm lượng vitamin B (pyridoxine, biotin)giúp tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của lông và tăng tính khả dụng của vitamin. Các chuyên gia dinh dưỡng của các công ty gia cầm khác đã tăng lượng acid folic bổ sung vào khẩu phần thức ăn vì acid folic tham gia vào quá trình sinh hóa giúp chuyển hóa methionine thành cysteine. Cysteine là thành phần đặc biệt quan trọng trong lông, nhưng rất khó để tăng hàm lượng cysteine trong thức ăn thông qua các nguyên liệu có sẵn.Vì lý do này, tất cả các cách thức giúp tăng việc sử dụng methionine trong thức ăn để cải thiện lông được tối ưu hóa. Ngoài ra, thiếu chất xơ trong khẩu phần có thể gây ra hiện tượng mổ và ăn lông của nhau.b. Vitamin, khoáng chất và khoáng vi lượngSự thiếu hụt hầu hết các loại vitamin và khoáng chất thiết yếu đều gây ra tình trạng lông mọc bất thường. Ví dụ như thiếu hụt riboflavin có lẽ gây ra những dấu hiệu đặc trưng nhất ở phôi và gà con như biểu hiện cụp xuống với một đầu lông phồng lên ở đầu mỗi lông tơ (hình minh họa bên dưới). Trong một vài năm gần đây,tỷ lệ gà con bị mắc bệnh này ngày càng tăng, dễ nhìn thấy nhất là ở các trại gà giống và người ta thường gọi đây là hội chứng suy nhược. Và nguyên do dễ thấy nhất là tình trạng không đáp ứng đủ riboflavin vào khẩu phần ăn.  Một nghiên cứu gần đây cho thấy nguyên nhân khác có thể là do gà giống bị thiếu kẽm docho ăn quá nhiều canxi và sắt. Mặt khác, có thể là do một loại virus astrovirus từ người nuô Nhiều năm trước, các nhà nghiên cứu ở Úc cho rằng việc lông cụp xuống có liên quan đến cái gọi là“ginger hairs” trên vùng cổ của gà con mới nở là do sự thiếu hụt chuyển hóa của molypden. Còn về khoáng vi lượng, nếu không bổ sung đủ thì cũng sẽ gây cản trở sự phát triển của lông. Ví dụ như thiếukẽm, thiếc, crom, niken hay vanadi… Trong đó,kẽm được đánh giá là quan trọng nhất trong sự phát triển lông tốt hay không. Nếu thiếu kẽm, lông thường bị sờn, đặc biệt là có ảnh hưởng xấu đến lông cánh sơ cấp ở giai đoạn đang phát triển. Hoặc trục lông cách nang lông khoảng 3cm sẽ có các vết phồng rộp đặc trưng và ở điểm này, lông thường dễ gãy. Thiếu kẽm còn gây ra hiện trạnglông “hình thìa”, không có cánh phát triển gần nang lô Lông hình chiếc thìa cũng được mô tả ở những loài chim bị nhiễm vi rút  “reticulo-endothelial virus”. Lông từ những con gà hậu bị và những con gà giống bị stress sẽ xuất hiện những đường stress (những đường mờ theo chiều ngang của lông) do thiếu kẽm tạm thời (vì nhu cầu kẽm của gà thường tăng trong khoảng thời gian stress). Các đường stress này mờ hơn phần còn lại của lông và lông sẽ dễ đứt gãy tại vị trí đó. Một khoáng chất khác đang được quan tâm hiện nay làđộc tính của boron, chất này đôi khi được sử dụng làm chất độn chuồng để kiểm soát bọ cánh cứ Không rõ liệu axit boric có gây ra vấn đề nghiêm trọng cho lông do tiếp xúc với da hay chúng bị ảnh hưởng do ăn phải chất độn chuồng bị ô nhiễm? Ngoài ra,I-ốt cũng là một chất dinh dưỡng quan trọng cho quá trình tạo lông vì có mối liên hệ mật thiết với quá trình trao đổi chất của tuyến giá Trước đây, chúng ta có thể đã đánh giá thấp nhu cầu thay lông bằng I-ốt của gia cầm, vì đối với hầu hết các loại gia cầm, yêu cầu về chế độ ăn uống luôn được công bố trong sách hướng dẫn chăn nuôi ở mức 1ppm. Ngày nay chúng tôi nhận thấy rằng mức 2-3ppm có lẽ phù hợp hơn để lông phát triển tối ưu. Theo đó, bột ngô và đậu nành đều chứa khoảng 0,2ppm iốt, còn lúa mì thấp hơn nhiều ở mức 0,1ppm, cao lương và hạt kê đặc biệt thấp ở mức 0,03ppm. Có thể thấy vitamin và khoáng chất cũng có thể giúp cải thiện sự phát triển lông. Vì vậy mà nhiều công ty gia cầm đã tăng hàm lượng khoáng vi lượng vào trong công thức thức ăn chăn nuôi. Một số đơn vị sẽ chọnkẽm, đồng và selen để giúp gà dễ tiêu hóa hơn từ các nguồn hữu cơ (vì các khoáng hữu cơ đã được chứng minh là có khả năng tăng cường hấp thụ chất dinh dưỡng). Nhiều nghiên cứu về nguồn kẽm hữu cơ đã cho thấy khi bổ sung tăng cường kẽm, việc mọc lông trở lại được cải thiện ở những con gia cầm đang phát triển. Ngoài ra, sự cải thiện về khối lượng lông của gà thịt cũng được cải thiện khi bổ sung selen hữu cơ.c. Độc tố nấm mốcNếu xuất hiện độc tố nấm mốc trong thành phần nguyên liệu cho gia cầm ăn thì sẽ gây ra nhiều bất thường cho sự phát triển của lông. Nếu chúng được cho ăn với nguyên liệu có hàm lượng lớn độc tố T-2 thì chúng chỉphát triển được một lớp lông phủ thưa thớt và có xu hướng mọc dầy/nhô lên ở những góc khuất/góc lạ thường trên da của con gà. Có một khả năng cho rằng độc tố này đã làm thay đổi quá trình chuyển hóa của một số chất dinh dưỡng khác, do đó có thể nó là tác động gián tiếp. Đối với việc nhiễm độc T-2, hầu hết các lông trên cơ thể đều bị ảnh hưởng, không giống như tình trạng cục bộ được thấy với sự mất cân bằng vitamin hoặc axit amin. Tuy nhiên, các vấn đề về lông xảy ra với khoảng 5-15ppm độc tố T-2 trong khẩu phần ăn cần mức độ cao bất thường trong các loại hạt như ngô/bắp.Các vấn đề của T-2 có liên quan đến bệnh helicopter (lông bất thường) ở thực tế. Các trục lông có xu hướng có một đường cong nổi bật cách xa cơ thể và trong một số trường hợp có một vạch tối rõ ràng trên lông khoảng 1/4 chiều dài tính từ đầu lông. Ngoài ra, hiện tượng chậm mọc lông ở gà thịt còn bị gây ra bởi Ochratoxin.        Bên cạnh đó, sự hiện diện của nhiều loại độc tố nấm mốc, ở mức độ không nhiều lắm, cũng có thể có tác động bất lợi đến quá trình mọc lông ngay cả khi tất cả người nuôi đáp ứng đầy đủ các yếu tố dinh dưỡng khác.Một nghiên cứu khác cũng cho rằng,một số độc tố scirpentriol do nấm mốc Fusarium tiết ra đã làm cho lông bị sờn với độ phủ của lông kém ở các gà đang lớn. Những chiếc lông bị ảnh hưởng có thể không chịu được sự khắc nghiệt trong suốt chu kỳ sinh sả Nhìn chung, các chuyên gia dinh dưỡng từ các công ty gia cầm đã thay đổi một số chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn để giúp khắc phục các vấn đề trên lông ở gia cầm. Dinh dưỡng gà hậu bị và gà giống có thể góp phần cải thiện các vấn đề về lông ở lứa đẻ từ giữa tới cuối. Các chuyên gia ở nhiều công ty đã thực hiện một số thay đổi trong công thức thức ăn để giúp chúng giữ bộ lông được tối ưu và cũng như tạo ra các chương trình cho ăn trong thực tế để có thể bổ sung cho những thay đổi trên bằng cách theo dõi và kiểm tra cẩn thận bộ lông của chúng theo từng giai đoạn và độ tuổi.d. Những ý quan trọng khácMột vấn đề khác thường được nêu ra khi xảy ra các bất thường về lông là nguồn methionine được sử dụng, dưới dạng DL Methionine hoặc chất tương tự hydroxy của nó. Việc xem xét tài liệu cho thấy không có sự khác biệt giữa các nguồn này về mặt trao đổi chất nói chung và đặc biệt là đối với lông. Mặc dù bộ lông phát triển bất thường có thể được sử dụng để hỗ trợ chẩn đoán thiếu hụt axit amin và các chất dinh dưỡng khác, nhưng kết quả thường không cụ thể, chẳng hạn như sự đối kháng, thiếu hụt và/hoặc mất cân bằng của axit amin (và nhiều chất dinh dưỡng khác) thường dẫn đến những bất thường tổng thể tương tự về bộ lông. Ví dụ, sự mất cân bằng của leucine và valine, hoặc thậm chí glycine, phenylalanine và tyrosine đều gây ra các loại bất thường về lông tương tự ở gà con. Trong hầu hết các tình huống, trong chế độ ăn thiếu hụt hoặc mất cân bằng như gà con sẽ xuất hiện tình trạng “lông xù” và khi kiểm tra kỹ hơn, lông trên cơ thể chúng thường nhô ra khỏi cơ thể trong khi lông cánh sơ cấp luôn không có vỏ bọc sát cơ thể. Công trình nghiên cứu kinh điển của Mario Penz cách đây vài năm đã cho thấy tác động của sự mất cân bằng các axit amin chuỗi nhánh trong quá trình phát triển của lông cánh gà thịt (hình minh họa bên dưới). Và việc bổ sung quá nhiều leucine sẽ gây ra hiện tượng mọc lông bất thường, điều này đã được khắc phục bằng cách bổ sung một lượng dư leucine và isoleucine tương ứng. Sắc tố lông cũng bị ảnh hưởng bởi dinh dưỡng. Lysine đã được xác định là axit amin chính liên quan đến sự hình thành sắc tố mặc dù sắc tố giảm cũng được thấy ở gà con được cho ăn khẩu phần thiếu phenylalanine và tyrosine, là tiền chất của melanin. Thiếu lysine cũng có thể gây mất sắc tố do ức chế hoạt động của enzyme tyrosinase, do đó ức chế sự hình thành

7 YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG ĂN VÀO VÀ KHẢ NĂNG TIÊU HOÁ CỦA TRÂU BÒ

Chăn nuôi trâu bò cho thịt và cho sữa đang được phát triển mạnh ở nước ta để cung cấp sản phẩm thịt, sữa và phụ phẩm chế biến cho nhu cầu ngày càng tăng của thị trường. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi này như giống, thức ăn, dịch bệnh, môi trường chăn nuôi, các yếu tố quản trị chăm sóc… và thị trường. Vì vậy, nhà chăn nuôi cần phải đầu tư thích đáng để đạt được hiệu quả chăn nuôi tốt nhất. 1. Cho ăn quá nhiềuBò sẽ bị ảnh hưởng xấu do cho ăn quá nhiều và thường xuất hiện các triệu chứng đầy hơi, khó tiêu, và trướng bụng cấp tính hoặc tác động mạnh vào dạ dày. Ngoài ra, các loài vi khuẩn như Clostridium welchii thường được tìm thấy trong chất chứa ở ruột của vật trong tình trạng cho ăn quá mức với sự sản sinh độc tố quá mức trong ruột, sự hấp thụ nó sẽ gây ra bệnh. Ở những bò sữa bị ăn quá mức khi được mong muốn sản xuất phá kỷ lục, những triệu chứng rối loạn tiêu hóa như vậy xuất hiện đột ngột làm sụt giảm sản lượng sữa. Thể keton trong máu tăng quá mức cũng có thể xảy ra ở vật nuôi được cho ăn nhiều vì chúng không thể hoàn thành quá trình oxy hóa chất béo trong cơ thể. Các sản phẩm oxy hóa không hoàn toàn (vật thể keton) tích tụ trong máu và ảnh hưởng xấu đến tình trạng cơ thể và chất lượng sữa.2.  Cho ăn thiếuSự thiếu hụt các vitamin và khoáng chất liên tục kéo dài thường dẫn đến sự phát triển bệnh được gọi là bệnh dinh dưỡng, có thể gây ra thiệt hại không thể khắc phục và cần phải tránh. Sự thiếu hụt các yếu tố khác, chẳng hạn như thiếu năng lượng hoặc protein vừa phải, có xu hướng kìm hãm sự phát triển nhưng không gây hại đặc biệt nếu không tiếp tục quá lâu, đặc biệt là nếu vật nuôi không mang thai và dự kiến sẽ không sản xuất hiệu quả. Tuy nhiên, ở những vật nhân giống, việc cho ăn thiếu làm giảm đáng kể hoạt động sinh sản bình thường của chúng. Ở vật cái bị thiếu ăn có thể không động dục bình thường, và nếu có thai, vật còn tơ có thể không mang được thai, hoặc nếu được sinh ra, có thể sẽ bị yếu và phát triển kém.3. Chế biến thức ănViệc nghiền thường cải thiện lượng ăn vào và cũng có thể thêm các kim loại vào thức ăn. Ví dụ, người ta đã phát hiện ra rằng việc nghiền bột cam quýt bằng máy nghiền Wiley đã làm tăng đáng kể sắt, kẽm, đồng, natri và mangan dưới dạng kim loại nghiền mịn có thể được sử dụng tốt hơn cùng với các nguyên tố tương tự vốn có trong thức ăn. Trong một số trường hợp, việc nghiền có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng tiêu hóa nhưng ở một mức độ khác nhau tùy thuộc vào mức độ mịn. Tỷ lệ tiêu hóa chất khô của cỏ khô được nghiền thô, trung bình và rất mịn đã bị giảm lần lượt 3,2%, 7,6% và 15,1% so với cỏ khô được nuôi ăn ở dạng dài. Cỏ khô được nghiền thô không chỉ dễ tiêu hóa hơn mà còn ngon miệng hơn. Ngoài ra, nó cho phép thời gian nhai lại lâu hơn, lượng nước bọt được sinh ra lớn hơn và tỷ lệ acetate với propionate cao hơn trong dạ cỏ, nó đặc biệt quan trọng đối với bò sữa vì acetate là tiền chất chính của quá trình tổng hợp chất béo của sữa. Xử lý nhiệt của các thức ăn khác được nhận thấy là có lợi, đặc biệt trong các trường hợp các thành phần như hạt bông vải hoặc đậu nành được đưa vào tổ hợp trong khẩu phần. Nhiệt nóng các thành phần như vậy ở 140-150° C trong 2-3 phút dẫn đến sự phá hủy các chất độc và chất ức chế tự nhiên có trong thức ăn (gossypol tự do trong hạt bông vải và chất ức chế trypsin trong đậu nành) và do đó cải thiện giá trị dinh dưỡng của chú4. Số lần cho ănKhi cho vật nuôi ăn 5-6 lần mỗi ngày, sẽ có độ pH ổn định trong dạ cỏ ở các mức trong khoảng 5,5 đến 5,8, nhưng khi cho ăn chỉ 1-2 lần mỗi ngày, trong trường hợp này, giá trị pH sẽ thay đổi từ khoảng 5.1 đến 7.1 trong cùng ngày. Với giá trị pH ổn định trong dạ cỏ, tỷ lệ tiêu hóa của chất xơ khẩu phần sẽ tăng lên do hoạt động của vi khuẩn trong dạ cỏ tăng lên dẫn đến mức năng lượng tăng cần thiết cho hoạt động đó (nồng độ ATP ở dạ cỏ cao gấp 2,5 lần ở số lần cho ăn cao so với số lần cho ăn thấp). Ngoài ra, việc số lần cho ăn cao còn làm giảm lượng ammonia tạo ra trong dạ cỏ sau quá trình tiêu hóa protein, cho thấy tỷ lệ hình thành protein có thể phân giải thấp và tỷ lệ protein không phân giải cao được sử dụng cho mục đích sản xuất. Tỷ lệ tăng của protein không phân giải có liên quan đến protein phân giải trong dạ cỏ có lẽ được cho là do tốc độ tăng của chất tiêu hóa chuyển qua dạ cỏ bằng việc số lần cho ăn cao, do đó không đủ thời gian cho sự phân rã.5. Yếu tố môi trường Một số yếu tố môi trường có thể ảnh hưởng đến lượng ăn vào ở vật nuôi, chẳng hạn như: stress nhiệt, mưa, tiếng ồn và độ cao. 6.Yếu tố vật nuôi Một số yếu tố của vật nuôi có thể ảnh hưởng đến ăn vào ở động vật, chẳng hạn như tuổi, mang thai và mức độ vận động. 7. Các bệnh của cơ thểMột nghiên cứu đã được thực hiện để định lượng giảm lượng ăn vào và tổn thất sản xuất sữa có liên quan đến các rối loạn sức khỏe ở bò sữa. Lượng ăn vào bị giảm 6,7-14,7 kg chất khô (DM) trong các tình trạng bệnh như tiêu chảy, viêm vú, thể keton trong máu cao và sốt sữa với mức giảm 1,94 kg sản lượng sữa cho mỗi kg DM ăn vào giảm. Ví dụ như sự xâm nhập của ký sinh trùng bên ngoài cũng có thể ảnh hưởng xấu đến tình trạng protein của động vật. Giả sử một vật nuôi bị nhiễm 200 con ve, sau đó hàng ngày, con vật có thể mất 200ml máu hoặc 40 g protein (giả sử máu có 20% protein). Sự gia tăng nhu cầu về 40 g protein có thể được đáp ứng bằng cách cho ăn 150 g bột hạt bông vải hoặc từ protein vi sinh vật được sinh ra trong dạ cỏ từ 250 g carbohydrate tiêu hóa. Do đó, các nhu cầu đối với acid amin tăng là do bệnh ký sinh trùng và gia súc sẽ bị mất cân bằng về các chất dinh dưỡng của chúng trong và đôi khi sau khi điều trị ký sinh trùng. Vật nuôi bị cạn kiệt protein có khả năng tạo ra nhiều nhiệt hơn và việc sử dụng năng lượng trao đổi (ME) sẽ bị giảm. Các ảnh hưởng của nội ký sinh trên trâu bò sẽ thay đổi theo mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng cũng như tuổi và mức stress của vật nuôi. Các nôi ký sinh trùng ảnh hưởng đến lượng ăn vào của vật nuôi theo mức thay đổi khác nhau tùy thuộc vào tính nghiêm trọng của sự xâm nhập. Một mối quan hệ như vậy có thể được quy cho ảnh hưởng của ký sinh trùng đến sự vận động của dạ cỏ, pH dạ cỏ và hệ nội tiết hormone điều chỉnh sự thèm ăn và lượng ăn vào. Nội ký sinh trùng cũng ảnh hưởng đến tiêu hóa và sử dụng protein khẩu phần, do lượng ăn vào giảm và nhu cầu của vật nuôi sử dụng protein thức ăn như một nguồn năng lượng bù đắp.8. Các chiến lược cải thiệnNhững gì có thể được thực hiện để ngăn chặn việc ăn vào và sử dụng thức ăn bị giảm do tất cả các yếu tố này?Cần tránh cho vật nuôi ăn quá nhiều vượt quá nhu cầu thực tế của nó. Ngoài sự tiết kiệm thức ăn, cho ăn quá nhiều còn ảnh hưởng xấu đến môi trường dạ cỏ và gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe và sản xuất. Việc cho ăn thiếu cũng nên tránh vì nó gây ra các bệnh về dinh dưỡng dẫn đến thiệt hại không thể khắc phục. Thức ăn nên được xử lý đúng cách và được cung cấp nhiều lần mỗi ngày để duy trì chức năng dạ cỏ bình thường và cải thiện sự sử dụng. Vật nuôi trong các hoạt động nuôi dưỡng bị nhốt nên được vận động một khoảng thời gian mỗi ngày để cải thiện khả năng tiêu hóa và sử dụng các chất dinh dưỡng của thức ăn. Cũng cần xem xét rằng phản ứng của vật đối với thức ăn có thể thay đổi bởi vì những thay đổi sinh lý liên quan đến tuổi và việc phân chia khẩu phần cần được điều chỉnh cho phù hợp. Stress nhiệt ảnh hưởng xấu đến việc sử dụng thức ăn và sản xuất sữa và do đó, nên giảm bớt bằng các biện pháp vận dụng khéo vào khẩu phần (bổ sung chất đệm có thêm chất béo, protein và khoáng chất), và cũng bằng cách điều chỉnh môi trường tiểu khí hậu (bóng mát, vòi phun nước, v.v.). Việc vật nuôi tiếp xúc với stress tiếng ồn cũng ảnh hưởng đến nhai lại và quá trình trao đổi chất. Trong trường hợp không thể tránh được stress tiếng ồn, việc bổ sung thức ăn có thêm chất chống oxy hóa có thể giúp giảm bớt các phản ứng trao đổi chất có hại liên quan đến tiếng ồn. Vật nuôi phải luôn được duy trì trong tình trạng sức khỏe tốt. Chúng cũng cần được xử lý phòng ngừa nội ký sinh trùng bằng phương pháp tẩy giun và quản lý đồng cỏ thích hợp để giảm thiểu ảnh hưởng của các nội ký sinh trong việc sử dụng thức ăn và năng suất của vật nuôi. Tương tự, các ngoại ký sinh trùng cần được kiểm soát chặt chẽ thông qua việc sử dụng thuốc trừ côn trùng. Tuy nhiên, điều này cần được thực hiện dưới sự giám sát của bác sĩ thú y, người sẽ hướng dẫn việc xử lý tùy thuộc vào mức độ xâm nhiễm, độ tuổi và sức khỏe của vật nuôi.

3 YẾU TỐ TỐI ƯU HOÁ CHĂN NUÔI HEO, GIA CẦM

Hệ vi sinh đường ruột, dinh dưỡng và chức năng của hệ tiêu hóa, miễn dịch là 3 yếu tố không tách rời và đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe, năng suất chăn nuôi gia cầm và heo.   Tương tác giữa dinh dưỡng, hệ vi sinh đường ruột và chức năng của hệ miễn dịch và hệ tiêu hóa đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe và hiệu suất của gia cầm và heo. Để kích hoạt các yêu tố này cùng lúc, cần điều chỉnh các chiến lược dinh dưỡng và chăn nuôi. 1. Enzyme và probioticBổ sung enzyme vào thức ăn chứa thành phần khó tiêu giúp tăng năng lượng, axit amin và chất khoáng cho vật nuôi. TS. Kreij cho biết, “Khi cải thiện hiệu quả sử dụng chất dinh dưỡng, hệ vi sinh cũng không còn quá tải mà duy trì trạng thái cân bằng hơn, từ đó, cải thiện năng suất chăn nuôi. Thực tế, các phụ gia thức ăn tương tác với nhau. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh tác dụng khi kết hợp probiotic và enzyme”, TS. Kreij nói. Nhìn vào thành phần hệ vi sinh đường ruột, sẽ thấy rõ hiệu lực hiệp đồng khi kết hợp đúng enzyme và probiotic. Các nghiên cứu bổ sung enzyme cùng probiotic lactobacillus đã khôi phục cân bằng hệ vi sinh sau khi thử thách với vi khuẩn gây hại nhưClostridium perfringens. Ngoài ra, bộ đôi enzyme và probiotic cũng tác động tích cực đến tính toàn vẹn của đường ruột; đồng thời làm tăng khả năng tiêu hóa hóa thức ăn, tối ưu hóa thành phần vi sinh và cải thiện sức khỏe cho gia cầm và heo.2. Chất khử trùng thức ăn giúp giảm mầm bệnhEnrique Montiel cho biết, việc sử dụng chất khử trùng thức ăn cũng là một giải pháp giảm vi khuẩn gây hại và mầm bệnh nhưSalmonella cho vật nuôi. Quá trình xử lý nhiệt trong sản xuất thức ăn viên sẽ tiêu diệt hầu hết vi khuẩn gây hại, nhưng thức ăn có thể tái nhiễm khuẩn trong quá trình bảo quản, vận chuyển, hoặc trong khay thức ăn tại chuồng gia cầm. Chất khử trùng thức ăn gián tiếp tác động có lợi đến gia cầm, bởi làm giảm lượng vi khuẩn trong thức ăn, từ đó góp phần cân bằng quần thể hệ vi sinh đường ruột khi gia cầm tiếp nhận nguồn thức ăn đó. Theo TS. Enrique Montiel, có thể sử dụng chất khử trùng ở bất cứ thời điểm nào trong quá trình sản xuất thức ăn. Nhiều chất khử trùng thức ăn chứaformaldehyde, nhưng chất này sẽ bị phân hủy thành axit formic và cuối cùng là carbon dioxide và nước trong vòng 60-90 giây sau khi gia cầm ăn thức ăn và không để lại dư lượng trong thịt hoặc trứng. Nhiều nghiên cứu cho thấy, thức ăn khử trùng bằng sản phẩm gốc dehyde tác động tích cực đến hiệu suất chăn nuôi và sức khỏe của gia cầ Khi được thử thách với vi khuẩn gây bệnh viêm ruột hoại tử, nhóm gà sử dụng thức ăn khử trùng luôn tăng trọng và chuyển hóa thức ăn tốt hơn; tỷ lệ thải loại cũng thấp hơn (dưới 4% so với 8% ở nhóm gia cầm đối chứng). Trừ châu Âu, đa số các quốc gia đều cho phép sử dụng chất khử trùng gốc formaldehyde.3.Hệ vi sinh và hiệu suất chăn nuôiBộ máy tiêu hóa của gà con mới nở rất non nớt và quần thể vi sinh đường ruột gần như không tồn tại mà dần hình thành từ nước hoặc môi trường khi gà con lớn lên. Trong tự nhiên, tiếp xúc với phân gà mẹ sẽ giúp hình thành hệ vi sinh vật khỏe mạnh ở gà con. Trong các hệ thống chăn nuôi hiện đại, môi trường của gia cầm đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của quần thể vi khuẩn đường ruột. Một phần của môi trường chính là nguồn thức ăn cung cấp cho gà con. Theo TS. Enrique Montiel, thức ăn là thành phần tác động mạnh nhất đến quần thể vi sinh và sức khỏe đường ruột. Enrique Montiel cho biết thêm, hệ vi sinh đóng vai trò chuyển hóa hóa chất dinh dưỡng và tác động trực tiếp đến cấu trúc cũng như sức khỏe biểu mô ruột. Một số vi khuẩn trong hệ vi sinh có thể loại trừ hoặc chiếm chỗ các vi khuẩn gây hại khác. Một phần quan trọng của hệ miễn dịch nằm ở ruột, vì vậy sức khỏe đường ruột liên quan trực tiếp đến khả năng miễn dịch. Vi khuẩn gây hại như Clostridium perfringens có thể sinh ra hợp chất độc hại gây viêm và dịch bệnh tiềm ẩn ở gia cầ Các enzyme và probiotic có thể được sử dụng để thiết lập hệ vi sinh đường ruột khỏe mạnh và chống lại xâm chiếm của vi khuẩn gây hại Clostridia.   

BỔ SUNG DINH DƯỠNG CHO DÊ

Dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sức khỏe, sự phát triển và năng suất của dê. Một chế độ ăn uống cân đối và đầy đủ dinh dưỡng không chỉ giúp dê phát triển tốt mà còn giúp phòng ngừa nhiều bệnh tật. Dưới đây là hướng dẫn chi tiết về cách bổ sung dinh dưỡng cho dê. 1. Nhu Cầu Dinh Dưỡng Cơ Bản Của Dê Năng lượngCarbohydrate: Cung cấp năng lượng chính cho dê, bao gồm các loại cỏ, ngũ cốc và thực vật xanh. Chất béo: Nguồn năng lượng dồi dào, thường có trong các loại hạt và ngũ cốc.ProteinVai trò của protein: Quan trọng cho sự phát triển cơ bắp, sản xuất sữa và sức khỏe tổng thể. Nguồn protein: Các loại cây họ đậu (như cỏ linh lăng), ngũ cốc (như đậu tương), và các loại thức ăn hỗn hợp chứa protein.Khoáng ChấtCanxi và phốt pho: Cần thiết cho sự phát triển xương và răng, đặc biệt quan trọng đối với dê con và dê cái đang mang thai hoặc cho con bú. Muối khoáng: Bao gồm natri, kali, magiê, cần thiết cho nhiều chức năng sinh lý.VitaminVitamin A, D, E: Cần thiết cho sự phát triển, chức năng sinh sản và hệ miễn dịch. Vitamin B: Quan trọng cho chuyển hóa năng lượng và chức năng hệ thần kinh.2. Thức Ăn Chính Cho Dê Cỏ Tươi và Cỏ KhôCỏ tươi: Nguồn thức ăn tự nhiên và quan trọng nhất cho dê. Cỏ tươi cung cấp nhiều chất dinh dưỡng, chất xơ và nước. Cỏ khô: Cỏ linh lăng, cỏ Timothy, và cỏ Bermuda là những loại cỏ khô chất lượng cao. Cỏ khô cung cấp chất xơ cần thiết cho hệ tiêu hóa của dê.3. Bổ Sung Dinh Dưỡng Khoáng Chất và VitaminKhoáng chất bổ sung: Cung cấp muối khoáng dạng viên hoặc bột để dê liếm tự do.Bằng việc sử dụng sản phẩm CALPHO/CANXIPRO/UMBROCAL  giúp cung cấp đầy đủ các loại khoáng chất như Canxi, Phospho liều lượng 1ml/1-2 l nước uống hoặc 1mk/10kg TT Vitamin bổ sung: Sử dụng các sản phẩm bổ sung vitamin dạng bột hoặc lỏng như UMBROTOP/AMILYTE/PRODUCTIVE FORTE để đảm bảo dê nhận đủ các vitamin cần thiết.ProbioticsLợi ích của probiotics: Hỗ trợ hệ vi sinh đường ruột, cải thiện tiêu hóa và tăng cường hệ miễn dịch. Sử dụng PERFECTZYME, ZYMEPRO: Thêm vào thức ăn hoặc nước uống của dê với liều lượng 1-2g/1l nước sử dụng liên tục 3-5 ngày.4. Dinh Dưỡng Cho Các Giai Đoạn Khác Nhau Dê ConSữa mẹ: Đảm bảo dê con được bú sữa đầu (sữa non) trong vòng 2 giờ sau khi sinh để nhận đủ kháng thể và dưỡng chất. Chuyển đổi thức ăn: Bắt đầu cho dê con làm quen với thức ăn rắn từ tuần thứ 2. Sử dụng cỏ khô và thức ăn hỗn hợp dạng viên nhỏ.Dê Trưởng ThànhChế độ ăn cân đối: Kết hợp cỏ tươi, cỏ khô và thức ăn tập trung. Điều chỉnh khẩu phần dựa trên trọng lượng, tuổi và mục đích chăn nuôi (lấy thịt, sữa hoặc làm giống). Bổ sung dinh dưỡng: Sử dụng khoáng chất và vitamin bổ sung thường xuyên để đảm bảo dê nhận đủ các chất cần thiết.Dê Cái Mang Thai và Cho Con BúNhu cầu dinh dưỡng cao hơn: Tăng cường khẩu phần ăn với nhiều protein, canxi và phốt pho để hỗ trợ sự phát triển của thai nhi và sản xuất sữa. Bổ sung vitamin và khoáng chất: Đặc biệt quan trọng trong giai đoạn này để tránh thiếu hụt dinh dưỡng và đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và con bằng sản phẩm CALPHO, UMBROCAL, AMILYTE.Kết Luận Bổ sung dinh dưỡng đúng cách là yếu tố quan trọng để đảm bảo sức khỏe và năng suất của dê. Bằng cách hiểu rõ nhu cầu dinh dưỡng của dê, sử dụng các loại thức ăn phù hợp, và bổ sung khoáng chất, vitamin cũng như probiotics, bạn có thể đảm bảo dê phát triển khỏe mạnh và đạt năng suất cao nhất. Hãy luôn theo dõi và điều chỉnh chế độ ăn uống dựa trên tình trạng sức khỏe và giai đoạn phát triển của dê để đạt được kết quả tốt nhất.

Môi trường chăn nuôi

TIÊU DIỆT KÍ SINH TRÙNG TRÊN HEO

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Thiệt hại của kí sinh trùng gây...

Tiềm năng, lợi thế chăn nuôi bò thịt, bò sữa của Thủ đô

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Là Thủ đô song Hà Nội vẫn...

DINH DƯỠNG CHO NÁI HẬU BỊ THỜI KÌ MANG THAI

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Sự phát triển của heo con ở...

QUẢN LÝ DINH DƯỠNG TRƯỚC VÀ SAU CAI SỮA ĐỂ GIẢM CHI PHÍ CÁM

25 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Vấn đề của những nước chăn nuôi...

NHU CẦU VITAMIN CỦA GÀ

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Để nuôi gia cầm thành công, người...

NHU CẦU KHOÁNG CỦA GÀ

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Để nuôi gia cầm thành công, người...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO SULPHONAMID

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
1. Triệu chứng Gà trúng độc Sulphonamid...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO FURAZOLIDON

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
1. Triệu chứng Khi dùng Furazolidon phòng...

BỆNH NGỘ ĐỘC THỨC ĂN DO ĐỘC TỐ AFLATOXIN

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO MUỐI

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Muối là một trong những thành phần...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO SELENIUM (Se)

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Selen là một trong những nguyên tố...

BỆNH DO TRÚNG ĐỘC KHÍ NH3

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Khí NH3  được sinh ra từ chất...

BỆNH TRÚNG ĐỘC KHÍ CO

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Lượng khí CO được sinh ra do...

BỆNH TRÚNG ĐỘC DO FORMALDEHYDE

30 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Formaldehyde hay còn gọi là formon. Dung...

BỆNH SƯNG GAN THẬN TRÊN GÀ

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh sưng gan và thận thường xảy...

BỆNH HỘI CHỨNG XUẤT HUYẾT VÀ PHÌ GAN

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh FLHS là biểu hiện một quá...

BỆNH DO SUY DINH DƯỠNG TRÊN GIA CẦM

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu hụt dinh dưỡng gây rối...

BỆNH THIẾU VITAMIN A

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Đặc điểm của bệnh thiếu vitamin A...

BỆNH THIẾU VITAMIN D

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin D trong đàn gà...

BỆNH THIẾU VITAMIN E

31 Tháng Một, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin E thường hay gặp...

BỆNH THIẾU VITAMIN K

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin K ở gà có...

BỆNH THIẾU VITAMIN B1

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin B1 ở gà thể...

BỆNH THIẾU VITAMIN B2

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu vitamin B2 có đặc điểm...

BỆNH THIẾU VITAMIN B5

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu axit Pantothenic ở gia cầm...

BỆNH THIẾU AXIT NICOTINIC – VITAMIN B3

2 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu axit Pantothenic ở gia cầm...

BỆNH THIẾU PYRIDOXIN (VITAMIN B6)

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Đặc điểm của bệnh này là giảm...

BỆNH THIẾU BIOTIN (VITAMIN H)

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Gà mắc bệnh thiếu Biotin có đặc...

BỆNH THIẾU AXIT FOLIC

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Axit folic hay còn gọi là vitamin...

BỆNH THIẾU CHOLINE

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Chất Choline còn được gọi là vitamin...

BỆNH THIẾU VITAMIN B12

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Vitamin B12 cần thiết cho sự phát...

BỆNH THIẾU SELENIUM

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thiếu Selenium ở gà có đặc...

BỆNH THIẾU CANXI VÀ PHOTPHO (Ca, P)

3 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Canxi và photpho là 2 nguyên liệu...

BỆNH THIẾU MANGAN (Mn)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Mangan được hấp thu qua đường tiêu...

BỆNH THIẾU MUỐI (NaCl)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
NaCl là một loại muối bao gồm...

BỆNH THIẾU KẼM (Zn)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Kẽm là một nguyên tố vi lượng...

BỆNH THIẾU (Mg)

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Mg trong cơ thể động vật chiếm...

BỆNH DO ĐÓI TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh đói ở gà thường thể hiện...

BỆNH DO MẤT NƯỚC TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Gà bị thiếu nước hay mất nước...

BỆNH DO LẠNH TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Gà bị lạnh với biểu hiện đứng...

BỆNH DO NÓNG TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Nhiệt độ quá nóng trong chuồng nuôi...

BỆNH DO TỔN THƯƠNG TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Đây là một bệnh nội ngoại khoa...

BỆNH THIẾU KALI TRÊN GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Kali trong cơ thể có tác dụng...

BỆNH VIÊM THẬN SỚM Ở GÀ

6 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh chỉ thấy xuất hiện ở gà...

BỆNH MỆT MỎI CỦA GÀ ĐẺ CÔNG NGHIỆP

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh CLF thường xảy ra ở gà...

BỆNH CÒI XƯƠNG

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Đây là bệnh thường phổ biến ở...

BỆNH MỀM ĐỐT SỐNG

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh thường thấy ở gà thịt giai...

BỆNH SỤN HOÁ XƯƠNG BÀN CHÂN

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh sụn hoá xương chày, xương bàn...

BỆNH GOUT

7 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Bệnh gout trên gà chia làm hai...

Kỹ thuật phòng và chữa bệnh cho vịt

12 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Sở hữu tổng đàn gia súc, gia...

LỰA CHỌN HỆ THỐNG CẤP NƯỚC CHO ĐÀN GÀ

12 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Ai cũng biết nước là nguồn dinh...

7 CÁCH GIÚP TĂNG LƯỢNG THỨC ĂN ĂN VÀO Ở HEO CAI SỮA

12 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Nếu lượng thức ăn ăn vào tăng...

ĐỘC TỐ NẤM MỐC: CÁNH CỬA CHO CÁC BỆNH TRUYỀN NHIỄM.

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Ảnh hưởng trực tiếp của độc tố...

BỔ SUNG CHẤT ĐIỆN GIẢI CHO GÀ

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Không khí nóng gây thiệt hại rất...

CÁC BIỆN PHÁP GIÚP THỤ TINH NHÂN TẠO THÀNH CÔNG

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Thụ tinh nhân tạo có nhiều ưu...

QUẢN LÝ NÁI CAO SẢN

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Lý do khiến các trại tuy đã...

NUÔI DƯỠNG GÀ VÀO MÙA NÓNG

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Thông qua việc tạo và giải phóng...

VITAMIN VÀ NĂNG SUẤT SINH SẢN CỦA HEO

25 Tháng Hai, 2022

Xem thêm
Một trong những yếu tố quan trọng...

BỆNH TGE TRÊN HEO – TRANSMISSBLE GASTROENTERITIS OF SWINE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH LỞ MỒM LONG MÓNG – FOOT AND MOUTH DISEASE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH MỤN NƯỚC TRÊN HEO – SWINE VESICULAR DISEASE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH MỤN NƯỚC TRONG MIỆNG HEO – SWINE VESICULAR STOMATITIS

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH PED TRÊN HEO – PORCINE EPIDEMIC DIARRHAE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH ĐẬU HEO – SWINE POX

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH VIÊM NÃO NHẬT BẢN TRÊN HEO – SWINE JAPANESE B ENCEPHALOMYETIS

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH VIÊM NÃO DO VIRUS NIPAH TRÊN HEO – NIPAH ENCEPHALITIS IN PIG

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

HỘI CHỨNG CÒI CỌC TRÊN HEO – POST WEANING MULTI SYSTEMIC WASTING SYNDROM

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH SẢY THAI DO PARVOVIRUS TRÊN HEO – PARVOVIRUS DISEASE OF SWINE

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH PPRS TRÊN HEO – PORCINE REPRODUCTIVE AND RESPYRATORY SYNDROME

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH GIẢ DẠI TRÊN HEO – AUJESZKY

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH CÚM HEO – HOG FLU

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH DỊCH TẢ CHÂU PHI – AFRICA SWINE FIVER

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH DỊCH TẢ HEO – HOG CHOLERA

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH SƯNG PHÙ ĐẦU TRÊN GÀ – AVIAN PNEUMOVIRUS (APV)

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

HỘI CHỨNG CÒI CỌC DO REOVIRUS – REO

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH CÚM GIA CẦM – AVIAN INFLUENZA (AI)

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH BẠI HUYẾT TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH KHẸC TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH HUYẾT TRÙNG TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH E. COLI TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm

BỆNH THƯƠNG HÀN TRÊN VỊT – NGAN

7 Tháng Tư, 2022

Xem thêm